Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

Chiếc sedan đầu bảng của Mercedes-Benz là đại diện cho sự sang trọng và sáng tạo, nhưng vẫn luôn nhất quán xuyên suốt trong một thời gian dài.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

Từ những món trang sức, giày, đồng hồ cho đến chiếc xe đang đi đều có thể tiết lộ hầu hết địa vị, sở thích hay tính cách cụ thể của một người. Ai đó đã nói rằng một chiếc S-Class sẽ thể hiện vẻ tinh tế, điềm đạm và đẳng cấp của chủ sở hữu. Tại sao vậy? Làm thế nào mà chiếc sedan đầu bảng của Mercedes-Benz vừa trở thành một đặc điểm tính cách cơ bản, vừa là kết tinh đỉnh cao cho sự sang trọng?

S-Class đã làm điều đó giống cách Jeep Wrangler và Ford Mustang trở thành biểu tượng tiêu biểu trong phân khúc của chúng với hàng thập kỷ không ngừng chuyên môn hóa và liên tục đổi mới. S-Class cũng luôn dẫn đầu công nghệ tại mọi thời điểm mà không quan tâm đến chi phí cũng như xu hướng lúc bấy giờ: chiếc xe đầu tiên có khu vực hấp thụ xung lực (1959), chiếc xe đầu tiên có đầu CD lắp đặt sẵn tại nhà máy (1985), chiếc xe đầu tiên có hệ thống hỗ trợ phanh khẩn cấp (1996), chiếc xe đầu tiên trang bị tiêu chuẩn hộp số tự động 7 cấp (2003). S-Class dần trở thành chiếc xe tượng trưng cho công nghệ tương lai, dù có những khi Mercedes-Benz không phải là người đầu tiên tung công nghệ đó ra thị trường, như với hệ thống phanh ABS hay túi khí chẳng hạng, thì thương hiệu này vẫn nhận được sự tín nhiệm của người tiêu dùng.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class
 
Hầu hết các chuyên gia trong ngành công nghiệp ô tô đều khẳng định rằng W116 1972 là nguồn gốc của dòng xe này, là mẫu xe đầu tiên mang ký hiệu S-Class, nhưng các phiên bản của W116 đã có mặt từ trước đó như W180 Ponton năm 1954, W111 Fintail năm 1959 hay W108 Stroke 8 năm 1965, cũng ít nhiều để lại di sản của riêng mình.

Theo dòng thời gian, thực tế Mercedes-Benz lần đầu tiên sử dụng ký tự S cho các mẫu xe sang bậc nhất của hãng từ sau Thế chiến II, có thể kể đến là mẫu 170 S (1949) và 300 S (1951). Cuốn sách của James Taylor mang tên "Mercedes-Benz S-Class 1972-2013" có giải thích rằng: "Trong từng trường hợp, nó rõ ràng được hiểu là viết tắt của Special". Vào thời điểm đó, tính từ này được dùng để chỉ các phiên bản đặc biệt của những chiếc sedan tiêu chuẩn, thường là những mẫu coupe và cabriolet cao cấp.

Đến những năm 1950, một thay đổi trong ý nghĩa được đưa ra. Taylor viết: "Đề xuất chữ S trong Special dần dần nhường chỗ cho ý tưởng S có nghĩa là Sonderklasse, nghĩa là Special Class. Bởi vì nhà sản xuất ô tô Đức DKW (một trong bốn công ty tiền thân hợp nhất thành lập nên Audi) đã gọi một trong những chiếc xe của mình như vậy: DKW Sonderklasse. Mercedes-Benz không bác bỏ điều đó và cách diễn giải chữ S này đã tồn tại trong suốt những năm 1960."
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

Những chiếc sedan Mercedes-Benz trong những năm 1950 đó ngay lập tức thiết lập nên các đặc tính riêng của dòng sedan hạng sang S-Class. Năm 1953, Mercedes-Benz 180 trở thành chiếc xe an toàn tiên tiến nhất với thiết kế "ba hộp" trên khung gầm liền khối unibody, giúp tăng khả năng bảo vệ cho khoang hành khách. Tiếp đó, Mercedes-Benz 220 năm 1959 là mẫu xe thương mại đầu tiên có các khu vực hấp thụ xung lực. Về mặt kỹ thuật, chiếc 220 SE (1958), viết tắt từ Spezial Einspritzung với nghĩa là Special Injection, cũng được trang bị hệ thống phun nhiên liệu của Bosch giống trên mẫu 300 SL. Bài đánh giá năm 1960 của tạp chí Car and Driver về 220 SE cho biết: "Các chi tiết và độ hoàn thiện của chiếc xe đều rất tuyệt diệu. Dù ở bên trong hay bên ngoài thì sự hoàn thiện và vừa vặn từ các tấm ốp, phụ kiện, các điểm nhấn nhá cho đến sơn đều không hề có lỗi, qua đó nhấn mạnh rõ ràng rằng đây là một chiếc xe thật sự chất lượng."

Tuy vậy, 200 vẫn chưa phải là quân át chủ bài của Mercedes-Benz. Vinh dự đó thuộc về 300, một chiếc sedan mà CEO Mercedes-Benz lúc bấy giờ là William Haspel phải trao cho nó danh hiệu "chiếc xe làm rạng danh Mercedes-Benz một lần nữa" vào năm 1947. Được phát triển tại Nurburgring, 300 là chiếc xe thương mại nhanh nhất của Đức khi nó ra mắt năm 1951. Trích dẫn trong cuốn sách "Mercedes-Benz, The 1950s, 300 and 300S, Sc" của Bernd Kohling, tạp chí Autocar của Anh đã viết: "Mercedes-Benz Type 300 rõ ràng là một đối thủ cạnh tranh rất mạnh khi được những người tiêu dùng quốc tế sành điệu nhất ưa chuộng với hiệu suất cao, độ hoàn thiện đến từng chi tiết, cùng những trang bị toàn diện có trên xe."

Hàng loạt người nổi tiếng và nguyên thủ quốc gia lúc đó đều sở hữu Mercedes-Benz 300. Điển hình là Giáo hoàng Gioan XXIII hay Nhà lãnh đạo Đức Konrad Adenauer với 6 chiếc của dòng 300 trong suốt 14 năm nhiệm kỳ của mình, gắn kết đến mức cả series 300 còn được gọi là "Adenauer Mercedes".
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

Nghe hấp dẫn như một chiếc S-Class phải không? Tuy sở hữu những chuẩn mực dẫn đầu nhưng chiếc sedan 300 vẫn không được gắn ký hiệu S cho đến khi 300 SE xuất hiện vào năm 1961. Đây là một phiên bản đẹp hơn, mạnh mẽ hơn của 200 SE trước đó và là nền tảng cho sự xuất hiện của Mercedes-Benz 600 đầu bảng mới. Hiển nhiên, các mẫu "Spezialen" đã tạo lập nên nhiều tiền thân về thiết kế, an toàn cũng như công nghệ nổi bật cho công thức đặc trưng của S-Class. 300 SE giới thiệu hệ thống treo khí nén tự cân bằng và đưa phiên bản trục cơ sở dài vào dòng sản phẩm chủ đạo. Dựa trên các bài thử nghiệm va chạm đa dạng, W111 ra đời với bảng táp lô có đệm dày, cột lái có thể thu gọn và khóa cửa dạng nêm tích hợp hai thiết bị khóa an toàn. W108 năm 1966 là chiếc Mercedes-Benz đầu tiên có hệ thống treo khí nén tự động cân bằng.

Cuối cùng, Mercedes-Benz đã kết hợp mọi thứ lại với nhau trên mẫu W116 S-Class 1972, tạo ra thế hệ xe mà hãng gọi là "bản cập nhật lớn về trải nghiệm lái, thiết kế và công nghệ an toàn" so với những thế hệ tiền nhiệm. Tính đến năm 1972, S-Class đã trải qua 21 năm hình thành và phát triển. Bắt đầu từ điểm đó, dưới đây là sơ lược một loạt những điểm nổi bật và cột mốc quan trọng trong chặng đường gần 50 năm của công nghệ, an toàn và giá trị.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

W116 (1972-1980) không phải là mẫu xe đầu tiên có hệ thống phanh chống bó cứng bốn bánh. Mercedes-Benz giới thiệu hệ thống này vào năm 1970, nhưng Chrysler Imperial 1971 và hệ thống Sure-Brake đã đánh bại Mercedes-Benz về thời điểm đưa vào xe sản xuất. Dù vậy W116 S-Class 1978 đã trình làng cùng với phanh ABS tốt hơn để tiêu thụ trên toàn thế giới. Cùng năm đó, mẫu 300 SD dành cho thị trường Mỹ và Canada trở thành chiếc sedan hạng sang đầu tiên trang bị động cơ diesel tăng áp. W116 mang đến vô lăng có kích thước lớn, bốn chấu bằng nhựa màu đen. Bên cạnh đó các nhà thiết kế cũng đặt bình nhiên liệu phía trên trục sau và di chuyển bánh dự phòng xuống dưới cốp để bảo vệ bình nhiên liệu khi va chạm.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

W126 (1979-1991) không phải là dòng xe sản xuất đầu tiên được trang bị túi khí, GM và Ford đã làm như vậy nhiều năm trước nhưng dừng lại sau đó. W126 đã mang hệ thống túi khí quay lại thị trường vào năm 1982, đồng thời là chiếc xe đầu tiên có dây an toàn. Năm 1987, W126 ra mắt hệ thống kiểm soát độ bám đường cho thị trường Châu Âu, cùng năm đó Toyota cũng trang bị tính năng này cho chiếc sedan JDM Crown. Ngoài ra, hệ thống treo của xe còn có thể hạ thấp độ cao xe xuống 1-inch ở tốc độ trên 137 km/h, cùng các đèn chiếu sáng gầm khi mở cửa. Lúc đó, Mercedes-Benz cũng đã bắt đầu các thử nghiệm đâm va trực diện với W126.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

W140 (1991-1998) không phải là chiếc xe đầu tiên có hệ thống ổn định thân xe điện tử. Hệ thống Dynamic Stability Control tương tự của BMW đã ra mắt lần đầu tiên vào năm 1992. Nhưng W140 còn hỗ trợ người lái khi kết hợp với hệ thống hỗ trợ phanh, điều hướng APS, điều khiển bằng giọng nói Linguatronic, tính năng đóng cửa êm ái và là chiếc xe có động cơ V12 sản xuất hàng loạt đầu tiên của thương hiệu. W140 còn là mẫu xe đầu tiên sở hữu hệ thống điều hòa khí hậu 4 vùng, nhiệt độ được giữ ổn định nhờ cửa sổ lắp kính hai lớp. Đội ngũ kỹ sư đã lựa chọn các loại vật liệu phù hợp để chiếc xe trở nên thân thiện với môi trường, đồng thời dập mọi chi tiết bằng nhựa với mã loại để dễ dàng tái chế. Theo đó, Cục Bảo vệ Môi trường EPA Mỹ đã trao danh hiệu "Bảo vệ Tầng bình lưu" cho W140.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

W220 (1998-2005) là thế hệ xe quan trọng ra mắt kèm 5 tính năng công nghệ nòng cốt: hệ thống an toàn đón đầu Pre-Safe, định vị COMAND GPS, hệ thống treo khí nén, hệ thống điều khiển hành trình thích ứng Distronic và kiểm soát thân xe chủ động. W220 cũng đưa vào ứng dụng rộng rãi công nghệ ngắt xi-lanh sau khi Sturtevant, GM, Alfa Romeo và Mitsubishi đã thử và từ bỏ, đồng thời đặt đèn báo rẽ LED vào vỏ gương chiếu hậu.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

W221 (2005-2013) đã mở rộng việc sử dụng những tính năng hỗ trợ lái với hệ thống cảnh báo tập trung, giám sát điểm mù, cảnh báo chệch làn đường, hỗ trợ giới hạn tốc độ và hỗ trợ quan sát vào ban đêm. Hệ thống thông tin giải trí COMAND cải tiến được trang bị trên W221 hỗ trợ điều khiển mọi tính năng trên xe dễ dàng thông qua nút bấm trên vô lăng. Hãng xe Đức cũng mời nhà thiết kế nội thất của Audi là Stefan Sielaff để nâng cấp chất lượng thiết kế cũng như các chất liệu nội thất.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class

W222 (2013-2020) là thế hệ xe đầu bảng đưa nội thất tinh xảo và khác lạ như một chiếc xe ý tưởng vào sản xuất. W222 cũng là mẫu xe thương mại đầu tiên có hệ thống ánh sáng sử dụng hoàn toàn công nghệ LED. Các công nghệ tiên tiến như lái xe tự động và hỗ trợ ổn định ngang thân xe khi có gió lớn Crosswind Assist cũng được trang bị. Chưa kể, Magic Body Control ra mắt trên W222 là hệ thống treo chủ động dựa trên camera đầu tiên có khả năng quét điều kiện đường phía trước để tự điều chỉnh hệ thống treo sao cho phù hợp. Khoang cabin còn sở hữu công nghệ ion hóa không khí và hệ thống phun nước hoa độc quyền mà không chiếc xe nào khác có. Đặc biệt, W222 đã làm sống lại cái tên Maybach vang danh một thời.

Quay trở lại với những 170 S năm 1949 và 300 năm 1951, triết lý S-Class bắt đầu ở vị trí hàng đầu thế giới và tồn tại kể từ đó. Đó là những gì làm cho S-Class trở thành một dòng xe quan trọng. Tuy vẫn có những lần va vấp, nhưng sự tận tâm đối với "chiếc xe làm tên tuổi Mercedes-Benz tỏa sáng" vẫn được thể hiện. Tất cả đều hy vọng thế hệ W223 sẽ tiếp tục hành trình này, và còn "Sonderklasse" hơn thế.
 
Chặng đường dài trường tồn và tỏa sáng của Mercedes-Benz S-Class
Chia sẻ bài đăng
Văn Hóa Xe